Blogroll

Nam Á và cuộc Chia rẽ Trung-Xô

Trước cuộc chia rẽ Trung-Xô, những căng thẳng giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã cản trở những cố gắng của Liên xô nhằm duy trì mối quan hệ chặt chẽ với cả hai cường quốc Châu Á đang nổi lên này. Tháng 3 năm 1959, Trung Quốc đàn áp một cuộc nổi dậy ở Tây Tạng, dẫn tới sự bùng nổ chiến tranh giữa Trung Quốc và Ấn Độ.

Ngày 31 tháng 3, Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần và thế tục của Tây Tạng, bỏ trốn sang Ấn Độ, nơi ông được trao quy chế tị nạn vì sự phản kháng Trung Quốc. Sau này Ấn Độ ủng hộ một hành động tại đại hội đồng Liên hiệp quốc để bước vào một cuộc tranh luận ở mức độ cao nhất về các trách nhiệm nhân quyền của Trung Quốc trong vụ đàn áp với sự phản đối của Liên xô, Ba Lan, Nam Tư, Albania, Romania, Bulgaria, Đông Đức, Hungary, Tiệp Khắc, Bắc Triều Tiên và Mông Cổ. Tuy nhiên, dù có sự phản đối của Khối hiệp ước Warsaw, Mông Cổ và Bắc Triều Tiên với cuộc tranh cãi được Ấn Độ ủng hộ ở Liên hiệp quốc, Mao Trạch Đông dần đối đầu với thái độ im lặng và lưỡng lự trong việc ủng hộ các hành động của Trung Quốc ở Tây Tạng.
Cuộc xâm lược Tây Tạng của Trung Quốc tạo ra một sự đối đầu nguy hiểm hơn nhiều giữa Ấn Độ và Trung Quốc. Ngày 29 tháng 8 năm 1959, Thủ tướng Nehru thông báo với nghị viện Ấn Độ rằng quân đội Trung Quốc đã xâm lược Ấn Độ từ cả hai sườn của Tây Tạng và đã chiếm giữ nhiều đồn biên phòng. Dẫn ra những căng thẳng với Ấn Độ trong nhiều năm qua, Trung Quốc tiết lộ rằng họ không còn chấp nhận Đường McMahon giữa Trung Quốc và Ấn Độ như một biên giới pháp lý nữa, và đưa ra các yêu cầu chủ quyền với Aksai Chin, Sikkim và nhiều phần của Assam(hiện là Arunachal Pradesh). Những trách nhiệm và lên án trách nhiệm vi phạm biên giới và tình trạng thù địch diễn ra. Ngày 9 tháng 9, vài ngày trước chuyến đi tới Hoa Kỳ, Janos Kadar của Hungary đã tìm cách hoà giải những tranh cãi giữa Trung Quốc và Ấn Độ, với hy vọng có được những quan hệ thân thiện với cả hai bên. Khruschev và Alexander Dubček của Tiệp Khắc cũng lên tiếng yêu cầu Trung Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, phản ứng của Trung Quốc với những lời kêu gọi của Liên xô, Hungary và Tiệp Khắc về sự "cùng tồn tại hoà bình" với phương Tây và Ấn Độ không được coi là đáng khích lệ; và sự gia tăng căng thẳng dọc dãy Himalayas đã thu hút sự chú ý của thế giới với liên minh Khối hiệp ước Warsaw-Trung Quốc, vốn dựa trên các quyền lợi lý tưởng, chính trị và quân sự chung.
Tới khi sự tranh cãi biên giới Trung-Ấn phát triển lên thành một cuộc chiến ở cấp độ lớn nhất trong cuộc Chiến tranh Trung-Ấn năm 1962, liên minh giữa hai cường quốc cộng sản hàng đầu cũng tan vỡ. Dù các quốc gia thuộc Khối hiệp ước Warsaw ủng hộ đề xuất hoà bình tháng 10 năm 1962 của Trung Quốc, hối thúc Nehru chấp nhận nó, việc Albania và Romania đề nghị cung cấp các máy bay chiến đấu MiG cho Ấn Độ đã khiến các quan hệ Trung Quốc-Albania và Trung Quốc-Romania trở nên khủng hoảng. Điều này cũng khiến Trung Quốc quay sang chống lại các quốc gia cộng sản châu Âu khác. Tới cuối năm 1963, Khối Đông Âu và Trung Quốc đã lao vào những cuộc tranh cãi chống lại nhau, mở ra một giai đoạn thù địch công khai giữa các đồng minh cũ và kéo dài trong suốt thời kỳ còn lại của cuộc Chiến tranh Lạnh.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét